Thứ Năm, 30 tháng 8, 2018

Vai trò của các giam định chức năng thận

Khi bạn đang có hiện tượng về thận, khi thực hiện những xet nghiệm thận, bạn có thực sự hiểu biêt được ý nghĩa của chúng. Hãy cùng Gentis Khám phá trong Topic này nhé ! ≫> xét nghiệm adn ở đâu

Vai trò của các giam định chức năng của thận

Xét nghiệm Creatinine
Ở những người bình thường, nồng độ chất creatinin trong huyết tương chiếm khoảng 55 - 110 mmol/l; con số này ở nước tiểu là 8 - 12 mmol/24h tức là khoảng 8000 - 12000 mmol/l.
Nếu kết quả xét nghiệm cho thấy sự tăng creatinin, điều này nói lên sự thiểu năng thận, giảm độ lọc của cầu thận và giảm bài tiết của ống thận. Trong thực tế, các bác sĩ thường tính toán độ thanh lọc creatinin và độ thanh lọc urê của thận để đánh giá chức năng lọc của thận, từ đó xác định chức năng thận có đang tốt hay không.
Độ thanh lọc creatinin của thận sẽ giảm trong trường hợp thiểu năng thận, Lúc này mức độ giảm của độ thanh lọc creatinin tỷ lệ thuận với mức độ thiểu năng thận, nó phản ánh tổn thương xuất hiện ở cầu thận. Bên cạnh đó cũng có một số những trường hợp ảnh hưởng đến độ thanh lọc creatinin có thể kể đến là viêm cầu thận cấp và mạn tính; viêm bể thận - thận mạn; viêm bể thận - thận tái phát; nhiễm urê huyết; thiểu năng tim; cao huyết áp ác tính; máu qua thận giảm, giảm áp lực lọc cầu thận.
Độ thanh lọc creatinin phản ánh tương đối đúng chức năng lọc cầu thận. Tuy nhiên nó cũng có một số nhược điểm là trong các điều kiện bệnh lý, hay quá trình tiến triển của suy thận, khi nồng độ creatinin máu cao thì có sự bài tiết một phần ở ống niệu, hoặc khi thiểu niệu.
Xét nghiệm creatinin được đánh giá là đáng tin cậy hơn xét nghiệm urê vì nó ít chịu ảnh hưởng bởi chế độ ăn, mà kết quả của xét nghiệm này chỉ phụ thuộc vào khối lượng của cơ thể. ≫> dịch vụ xét nghiệm adn bảo mật
Ure máu và nước tiểu
Urê là chất được tổng hợp ở gan từ CO2, NH3 và ATP; trong đó CO2 là sản phẩm thoái hóa của protid. Trong lâm sàng, xét nghiệm urê máu và nước tiểu được thực hiện khá nhiều để đánh giá về chức năng lọc cầu thận và tái hấp thu ở ống thận. Tuy nhiên, xét nghiệm này có một nhược điểm khá lớn là nó bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn. Ví dụ như khi chúng ta ăn những món giàu đạm đồng nghĩa với việc làm tăng thoái hóa các aminoacid từ đó dẫn đến kết quả xét nghiệm sẽ sai lệch.
Đối với những người bình thường, nồng độ urê trong máu rơi vào khoảng 3,6 đến 6,6 mmol/l và nồng độ urê trong nước tiểu khoảng 250 đến 500 mmol/24h.
Ure máu tăng cao trong một số trường hợp sau: Suy thận, viêm cầu thận mạn, u tiền liệt tuyến.
Urê máu 1,7 – 3,3 mmol/l (10 - 20 mg/dl) hầu như luôn chỉ ra chức năng thận bình thường.
Urê máu 8,3 – 24,9 mmol/l (50 - 150 mg/dl) chỉ ra tình trạng suy chức năng thận nghiêm trọng.​
Các chất điện giải (Na+, K+, Cl-, Ca TP hoặc Ca++)
Đối với cơ thể bình thường, chỉ số của các ion này như sau: Na+ từ 135 đến 145 mmol/l; ion K+từ 3,5 đến 5,5 mmol/l; ion Cl-từ 95 đến 105 mmol/l; Ca TP từ 2,0 đến 2,5 mmol/lvà Ca++ từ 1,0 đến 1,3 mmol/l.
Nếu ion Na+ tăng rất có thể bệnh nhân bị phù thận, ưu năng vỏ thượng thận. Nồng độ Na+ máu tăng có thể gây nên một số thay đổi chức năng thận. Trong khi đó, nếu ion này giảm thì bệnh nhân có thể đang bị mất Na+ qua thận. Đây là triệu chứng thường gặp trong bệnh tiểu đường, những bệnh nhân có glucose máu cao, nhiễm cetonic máu, đi tiểu nhiều làm mất Na+, K+hay những người dùng thuốc lợi niệu quá nhiều, làm ức chế tái hấp thu Na+ ở tế bào ống thận.
Ion K+ cao sẽ cảnh báo bệnh nhân nguy cơ thiểu năng thận, vô niệu do các nguyên nhân hoặc viêm thận, thiểu năng vỏ thượng thận (bệnh Addison), làm giảm đào thải K+ qua thận. Trường hợp mất kali theo nước tiểu khi bệnh nhân nhiễm cetonic trong tiểu đường. Trường hợp này, lúc đầu ion K+ tăng nguyên nhân do nhiễm toan và suy thận, sau khi điều trị bằng insulin hết nhiễm toan và bài tiết của ống thận đã tốt thì K+ lại giảm.Bệnh nhân dùng thuốc lợi niệu quá nhiều làm tăng thải trừ kali theo nước tiểu.
Trường hợp bệnh nhân giảm canxi có thể gặp trong hội chứng thận hư (chủ yếu giảm canxi không ion hóa gắn với protid) vì mất qua nước tiểu cùng với protein.
Các thông số trong xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu liên quan đến bệnh thận
Albumin huyết thanh: Ở người bình thường, albumin huyết thanh khoảng 35 đến 50 g/L, chiếm 50 - 60% protein toàn phần. Albumin giảm mạnh trong trường hợp bệnh nhân mắc bệnh lý cầu thận cấp.
Protein toàn phần huyết tương: Giá trị bình thường của chỉ số này là 60 đến 80 g/L. Protein toàn phần huyết tương phản ánh chức năng lọc của cầu thận protein toàn phần sẽ giảm nhiều hơn trong các bệnh thận khi màng lọc cầu thận bị tổn thương.
Để có được kết quả xét nghiệm chính xác, đòi hỏi cơ sở y tế phải có đủ trang thiết bị tiên tiến theo tiêu chuẩn của bộ Y tế
Phòng Lab của TassCare là nơi đội ngũ nhân viên có trình độ cao thực hiện các loại xét nghiệm
Phương hướng điều trị
Nếu các xét nghiệm cho thấy có bệnh về thận ở giai đoạn sớm, người bệnh sẽ được tập trung điều trị nguyên nhân gây bệnh. Nếu thận tổn thương do tăng huyết áp, bác sĩ có thể sẽ kê đơn thuốc kiểm soát huyết áp đồng thời hướng dẫn người bệnh điều chỉnh lại chế độ ăn uống, lối sống.
Nếu người bệnh bị tiểu đường, bác sĩ sẽ có các biện pháp điều trị tiểu đường để giảm thiểu thiệt hại cho thận.
Nếu có những nguyên nhân khác dẫn tới kết quả xét nghiệm chức năng thận bất thường, chẳng hạn như sỏi thận hay sử dụng quá nhiều thuốc giảm đau, bác sĩ sẽ đề xuất một số biện pháp để điều trị.
Các người có kết quả giám nghiệm chức năng thận bất thường có thể sẽ nhất thiết làm xét nghiệm liên tục trong các tháng sau đấy, để theo dõi hiện tượng của thận. ≫> xét nghiệm adn bao nhiêu tiền
NGuồn: sưu tầm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét