Thứ Sáu, 8 tháng 1, 2021

Chảy máu khi mang thai giai đoạn đầu

Chảy máu trong nửa đầu thai kỳ là một hiện tượng thường gặp, phần lớn là các trường hợp chảy máu nhẹ và không ảnh hưởng đến sức khỏe. Tuy nhiên, đôi khi tình trạng chảy máu trong nửa đầu thai kỳ là dấu hiệu của nhiều bệnh lý nghiêm trọng đe dọa đến sức của thai nhi và sản phụ. Cùng dịch vụ sàng lọc trước sinh gentis tìm hiểu ngay nhé !

Chảy máu khi mang thai giai đoạn đầu

Chảy máu trong nửa đầu thai kỳ là tất cả các trường hợp phụ nữ mang thai có triệu chứng ra máu âm đạo trong thời gian nửa đầu của thai kỳ. Chảy máu âm đạo có thể xảy ra sau sang chấn hoặc có thể xảy ra một cách tự nhiên, không liên quan tới bất kỳ yếu tố nào. Máu âm đạo có thể đỏ tươi, đỏ sẫm hoặc màu đen, máu có thể ra nhiều hoặc ra ít, kéo dài. Khi chảy máu có thể đi kèm những triệu chứng khác như đau bụng âm ỉ hoặc từng cơn, đau bụng khu trú hoặc toàn bộ vùng hạ vị.
Chảy máu âm đạo trong nửa đầu thai kỳ là một hiện tượng phổ biến, tỷ lệ phụ nữ mang thai có hiện tượng ra máu trong ba tháng đầu là 15-25%. Phần lớn các trường hợp là chảy máu nhẹ, không phải trường hợp bệnh lý. Như hiện tượng ra máu khi mang thai tháng thứ 2 dạng những đốm máu nhỏ màu nâu hoặc hơi hồng, đây có thể là dấu hiệu trứng đã thụ tinh vào làm tổ trong tử cung.
Khi mang thai, hormone trong cơ thể thay đổi làm cho lượng máu đến tử cung phụ nữ tăng lên rất nhiều, cổ tử cung rất dễ chảy máu nhất là sau khi quan hệ tình dục hoặc khám phụ khoa. Tuy nhiên trong một số trường hợp chảy máu âm đạo là dấu hiệu của những tình trạng bệnh lý nghiêm trọng, do đó thai phụ khi có dấu hiệu ra máu âm đạo cần đến các cơ sở y tế để được xử trí kịp thời, có những trường hợp được can thiệp để giữ thai những có trường hợp thai phải được loại bỏ càng sớm càng tốt.
Các bệnh cảnh nguy hiểm khi chảy máu trong nửa đầu thai kỳ là: dọa sẩy thai, sẩy thai, thai ngoài tử cung, chửa trứng.

2. Dọa sảy thai

Dọa sảy thai là tình trạng thai còn sống, bị bong một phần khỏi niêm mạc tử cung
Là một trong những nguyên nhân thường gặp gây chảy máu trong nửa đầu thai kỳ, thường gặp ở những phụ nữ có bất thường tại tử cung như bệnh nhân có u xơ tử cung, tử cung hai sừng, tử cung đôi,...
Dọa sảy thai là tình trạng thai còn sống, bị bong một phần khỏi niêm mạc tử cung. Sản phụ có các triệu chứng chậm kinh và có các dấu hiệu của có thai, ra máu âm đạo đỏ tươi, tức bụng dưới hoặc đau âm ỉ vùng hạ vị. Khi thăm khám thực thể thấy cổ tử cung dài, đóng kín; tử cung tương ứng với tuổi thai. Xét nghiệm cận lâm sàng có hCG dương tính, siêu âm thấy hình ảnh có thai trong buồng tử cung, có thể có tim thai.
Bệnh nhân sẽ được hướng dẫn nghỉ ngơi, tránh vận động mạnh, ăn nhẹ, chống táo bón. Được xử trí bằng các thuốc giãn cơ trơn, kháng sinh chống nhiễm khuẩn, các thuốc hormone như Progesterone, Dydrogesterone,... để dưỡng thai. Tìm các nguyên nhân dọa sảy thai để điều trị, các nguyên nhân có thể là do bệnh toàn thân, u xơ tử cung, hở eo tử cung, di truyền, nội tiết,...

3. Hiện tượng sảy thai

Khi đang sảy thai, sản phụ có triệu chứng đau bụng nhiều từng cơn vùng hạ vị, máu ra ngày càng nhiều, máu đỏ lẫn máu cục

3.1 Đang sảy thai

Sảy thai là diễn biến tiếp theo của hiện tượng dọa sảy thai nếu không xử trí thành công, sẩy thai là cái chết tự nhiên của thai, thường gặp khi thai 13 tuần ra máu.
Khi đang sảy thai, sản phụ có triệu chứng đau bụng nhiều từng cơn vùng hạ vị, máu ra ngày càng nhiều, máu đỏ lẫn máu cục, bệnh nhân có thể bị choáng vì mất máu nhiều. Khi khám âm đạo, cổ tử cung đã xóa, mở, có thể thấy rau, thai hoặc cổ tử cung hình con quay vì lỗ trong và phần trên cổ tử cung đã giãn rộng, phình to do khối thai đã xuống đoạn dưới.
Bệnh nhân sẽ được xử trí bằng nạo bỏ thai càng sớm càng tốt, cho sử dụng các thuốc co hồi tử cung (Oxytocin, Ergometrin) để cầm máu, kháng sinh để chống nhiễm trùng, truyền các dung dịch đẳng trương (NaCl 0.9% hoặc Ringer lactat) để chống sốc.

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THAI NHI QUA TỪNG TUẦN

3.2 Sảy thai hoàn toàn

Sảy thai hoàn toàn là hiện tượng thường gặp khi sẩy thai trong 6 tuần đầu. Sau khi đau bụng, bệnh nhân ra máu, thai ra cả bọc sau đó máu ít dần. Khi khám thực thể thấy cổ tử cung đóng, tử cung nhỏ hơn tuổi thai. Khi siêu âm, nếu buồng tử cung đã sạch thì không cần hút, cho bệnh nhân uống kháng sinh nếu có nguy cơ nhiễm khuẩn.

3.3 Sảy thai không hoàn toàn

Triệu chứng khi bệnh nhân sảy thai không hoàn toàn (sót nhau) là sau khi sẩy thai, bệnh nhân ra máu kéo dài, còn đau bụng. Khi khám thấy cổ tử cung mở và tử cung còn to. Bệnh nhân sẽ được điều trị bằng kháng sinh, nếu trong buồng tử cung còn nhiều âm vang bất thường thì sử dụng thuốc Misoprotol (cứ 3-4 giờ cho ngậm dưới lưỡi 200mcg, tối đa 3 lần). Ngày hôm sau nếu siêu âm lại tình hình không cải thiện thì hút buồng tử cung, tiêm bắp một ống Oxytocin 5UI trước khi hút.

3.4 Sảy thai đã chết

Sảy thai đã chết là tình trạng thai chết ở tuổi thai dưới 22 tuần, lưu lại trong tử cung. Bệnh nhân có triệu chứng có thai, sau đó ra máu âm đạo, hết nghén, vú có thể tiết sữa non, không thấy thai máy, không thấy hoạt động tim thai. Khi khám thấy cổ tử cung đóng kín, có máu đen, tử cung nhỏ hơn tuổi thai. Xét nghiệm hCG âm tính nếu thai đã chết từ lâu, siêu âm thấy bờ túi ối méo mó, không có hoạt động tim thai.
Bệnh nhân sẽ được xử trí bằng Misoprotol, hút thai, và sử dụng kháng sinh sau thủ thuật. Các dấu hiệu sinh tồn, chảy máu được theo dõi chặt chẽ.

3.5 Sẩy thai nhiễm khuẩn

Thường xảy ra sau khi phá thai không an toàn, các phương tiện phá thai không đảm bảo vô khuẩn hoặc do sẩy thai sót rau. Khi thăm khám thấy tử cung mềm, ấn đau, cổ tử cung mở. Bệnh nhân sốt, mệt mỏi, khó chịu, tim đập nhanh, ra máu âm đạo kéo dài, có mùi hôi đôi khi có mủ.
Bệnh nhân sẽ được xử trí bằng kháng sinh liều cao. Nếu chảy máu nhiều, sẽ tiến hành hồi sức và hút thai. Nếu máu ra ít, dùng kháng sinh cho bệnh nhân 4-6 giờ, sau đó hút rau còn sót lại trong tử cung. Tiêm bắp thuốc co hồi tử cung Oxytocin trước khi hút. Trường hợp chảy máu và nhiễm khuẩn nặng, có thể phải cắt toàn bộ tử cung.

4. Thai ngoài tử cung

Thai ngoài tử cung là tình trạng cấp cứu ngoại khoa nguy hiểm, nếu thai ngoài tử cung vỡ có thể gây chảy máu trong nửa đầu thai kỳ nghiêm trọng
Thai ngoài tử cung là hiện tượng thụ thai nhưng thai làm tổ ở ngoài tử cung, vị trí thường gặp nhất là làm tổ tại vòi trứng (chiếm 95-98%). Đây là tình trạng cấp cứu ngoại khoa nguy hiểm, nếu thai ngoài tử cung vỡ có thể gây chảy máu trong nửa đầu thai kỳ nghiêm trọng, bệnh nhân có thể choáng, thậm chí tử vong nếu không được can thiệp kịp thời. Việc chẩn đoán sớm thai ngoài tử cung khi chưa vỡ hoặc mới rỉ máu có vai trò quan trọng. Để đảm bảo an toàn, những trường hợp bệnh nhân chậm kinh ba tháng đầu mà có hiện tượng chảy máu âm đạo phải đến các cơ sở y tế khám để loại trừ trường hợp thai ngoài tử cung.
Phụ nữ mang thai ngoài tử cung có triệu chứng chậm kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt, có thể có triệu chứng nghén. Đau bụng âm ỉ ở vùng bụng dưới, đau về bên vòi tử cung có phôi làm tổ, thỉnh thoảng có cơn đau nhói. Xảy ra tình trạng rong huyết, máu ra ít một kép dài ở âm đạo với đặc điểm máu đen, lợn cợn như bã cà phê, ra rả rích nhiều lần trong ngày.
Khi thăm khám, thân tử cung hơi to hơn bình thường, cạnh tử cung có khối nề, ranh giới không rõ, ấn đau, cổ tử cung đóng kín. Khi chạm ngón tay vào cổ tử cung thì đau tăng lên. Xét nghiệm hCG dương tính, nhưng khi siêu âm thì không thấy hình ảnh túi ối hoặc âm vang trong buồng tử cung mà có thể thấy những âm vang thất thường ở một bên cạnh tử cung.
Nếu thai ngoài tử cung đã vỡ, bệnh nhân có những cơn đau dữ dội, đột ngột, có thể sốc do mất máu, bụng chướng nhẹ, có phản ứng thành bụng và cảm ứng phúc mạc, gõ đục vùng thấp. Cổ tử cung đóng có ít máu theo tay, các túi cùng đầy, đực biệt túi cùng sau phồng và khi ấn ngón tay vào người bệnh rất đau, tử cung di động như đang bơi trong nước.Đo độ mờ da gáy ở tuần bao nhiêu ?

Xử trí thai ngoài tử cung:

Nếu thai ngoài tử cung chưa vỡ: bệnh nhân được phẫu thuật càng sớm càng tốt để tránh vỡ gây chảy máu. Tùy theo từng trường hợp và điều kiện của cơ sở khám chữa bệnh mà có thể phẫu thuật mở bụng hay nội soi, chọn phương pháp cắt hay bảo tồn vòi tử cung. Điều trị nội khoa nếu có chỉ định và điều kiện theo dõi.
Nếu thai ngoài tử cung đã vỡ: tiến hành hồi sức chống sốc, nhanh chóng phẫu thuật cắt vòi tử cung, lấy hết máu loãng và cục máu trong ổ bụng, có thể truyền máu hoàn hồi nếu có đủ điều kiện.

5. Chửa trứng

Một trong những nguyên nhân thường gặp gây chảy máu âm đạo trong nửa đầu thai kỳ nghiêm trọng là chửa trứng
Một trong những nguyên nhân thường gặp gây chảy máu âm đạo trong nửa đầu thai kỳ nghiêm trọng là chửa trứng. Chửa trứng là hiện tượng thụ thai bất thường, các nguyên bào nuôi thai phát triển quá mức, gai rau thoái hóa thành các túi mọng nước, dính vào nhau như chùm nho. Có hai loại chửa trứng là chửa trứng toàn phần và bán toàn phần. Trong đó chửa trứng bán toàn phần chiếm 2/3 các trường hợp.
Triệu chứng của chửa trứng là: mất kinh như những thai nghén khác, tình trạng nghén nặng hơn bình thường, chảy máu âm đạo ít một, máu đen, dai dẳng nhiều ngày, ban đêm máu ra thường nhiều hơn ba ngày. Khám tử cung thấy to nhanh hơn tuổi thai, mềm, không nắn thấy các phần của thai nhi, không nghe thấy tim thai, xét nghiệm hCG tăng cao, siêu âm thấy có hình ảnh ruột bánh mỳ, bệnh nhân có thể bị phù, huyết áp cao, protein niệu.
Bệnh nhân cần được loại bỏ thai trứng sớm để tránh nguy cơ chảy máu do sảy trứng. Tùy theo độ tuổi và nhu cầu sinh đẻ của bệnh nhân mà có thể chỉ nạo bỏ thai trứng hoặc cắt cả khối tử cung để giảm biến chứng của bệnh. Sau khi loại bỏ thai trứng, bệnh nhân cần được tiếp tục theo dõi ngoại trú trong 2 năm để sớm phát hiện biến chứng ung thư nguyên bào nuôi.
Do sự phức tạp và nguy hiểm của các tình trạng bệnh có thể xảy ra nên khi có dấu hiệu chảy máu trong nửa đầu thai kỳ, phụ nữ mang thai cần đến các cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị kịp thời, kể cả khi đã ngưng chảy máu.
Đọc thêm: bảng giá sàng lọc trước sinh nipt tại gentis

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét